4 LÝ THUYẾT KINH TẾ CHỦ CHỐT TRONG THE WEALTH OF NATIONS
Lý thuyết kinh tế chủ chốt trong The Wealth of Nations là gì?
Tác phẩm nổi tiếng của Adam Smith, ‘The Wealth of Nations’. Hay ‘Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia’ (1776). Đây là một trong những cuốn sách nền tảng của kinh tế học hiện đại. Trong tác phẩm có ảnh hưởng to lớn này, Adam Smith đã phác thảo những ý tưởng của ông về bản chất và động lực tăng trưởng kinh tế. Bao gồm vai trò của thị trường tự do, quyền sở hữu tư nhân. Và sự cạnh tranh trong việc thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng.
Chi tiết:
Ông cũng đã khám phá các khái niệm như phân công lao động, tiền lương, lý thuyết giá trị. Và cả tầm quan trọng của việc chuyên môn hóa trong việc thúc đẩy năng suất và tăng tổng lượng của cải. Đã gần 250 năm kể từ khi xuất bản lần đầu tiên. The Wealth of Nations vẫn là một tác phẩm quan trọng. Nó có thể giúp chúng ta hiểu các nguyên tắc và ý tưởng kinh tế cơ bản. Từ đó để phát triển hiểu biết toàn diện về các nền kinh tế toàn cầu ngày nay.
Dưới đây, MBA Andrews sẽ tóm tắt 4 trong số các lý thuyết kinh tế quan trọng. Đã được Adam Smith nêu ra trong The Wealth of Nations.
1. Phân công lao động – Lý thuyết kinh tế chủ chốt
Lý thuyết của Adam Smith về sự phân công lao động. Nó đã có ảnh hưởng lớn đến hiểu biết của chúng ta về cách thức hoạt động của các nền kinh tế. Theo Smith, chìa khóa để tăng năng suất là phân chia hoạt động lao động thành một loạt các nhiệm vụ lặp đi lặp lại. Và được thực hiện bởi những người khác nhau. Điều này cho phép mỗi công nhân tập trung vào một bộ kỹ năng cụ thể. Từ đó nâng cao hiệu quả và cho phép chuyên môn hóa cao hơn trong lực lượng lao động.
Smith cho rằng sự phân công lao động này cũng giúp thúc đẩy sự đổi mới và tiến bộ công nghệ theo thời gian. Vì nó khuyến khích người lao động sáng tạo hơn trong cách tiếp cận giải quyết vấn đề. Ngày nay, lý thuyết của Adam Smith về sự phân công lao động vẫn là một khái niệm quan trọng trong kinh tế học. Và thường được sử dụng để giải thích lý do tại sao mà một số doanh nghiệp lại có năng suất lao động cao hơn những doanh nghiệp khác.
2. Lý thuyết giá trị lao động
Lý thuyết giá trị lao động của Adam Smith là một trong những khái niệm chính. Nó được thảo luận trong Wealth of Nations. Theo lý thuyết này, giá trị của một hàng hóa hoặc dịch vụ được xác định bởi số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra nó. Điều này có nghĩa là:
Một sản phẩm cần nhiều thời gian và công sức để tạo ra. Đương nhiên sẽ có giá trị hơn một thứ có thể được sản xuất nhanh chóng và dễ dàng.
Ông đã sử dụng ý tưởng này làm cơ sở cho cuộc thảo luận của mình về các lực lượng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo Smith. Cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp giảm chi phí và tăng hiệu quả để duy trì lợi nhuận. Khi các doanh nghiệp trở nên năng suất hơn và sản xuất hàng hóa nhanh hơn. Giá của họ có xu hướng giảm, mang lại sức mua lớn hơn cho người tiêu dùng. Quá trình này khuyến khích những doanh nghiệp khác nhau áp dụng các kỹ thuật và công nghệ sản xuất mới. Để duy trì tính cạnh tranh. Bằng cách này. Smith tin rằng tiến bộ kinh tế được thúc đẩy. Bởi sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất đang tìm cách giảm chi phí và tăng năng suất.
3. Triết lý thị trường tự do
Trong The Wealth of Nations, Adam Smith đã đưa ra triết lý của mình về thị trường tự do. Ông lập luận rằng các cá nhân theo đuổi tư lợi của họ sẽ dẫn đến kết quả tốt nhất cho toàn xã hội. Triết lý này hoàn toàn trái ngược với quan điểm phổ biến vào thời điểm đó. Nó coi sự can thiệp của chính phủ là cần thiết để đạt được lợi ích chung.
Triết lý thị trường tự do của Smith được thể hiện trong khái niệm của ông về ‘bàn tay vô hình’ là:
Ý tưởng rằng một nền kinh tế có thể tự điều chỉnh thông qua hành động của những cá nhân chỉ tìm kiếm lợi ích tài chính của riêng họ. Ý tưởng này đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản và kinh tế học tự do.
Ông không hoàn toàn bác bỏ sự cần thiết của một khuôn khổ thể chế. Để đảm bảo một nền kinh tế thị trường tự do.
Smith biết được sự cần thiết của một chính phủ mạnh mẽ có thể thực thi quyền tài sản và luật hợp đồng. Cũng như cung cấp một hệ thống giáo dục công và cơ sở hạ tầng. Nhưng ông tin rằng các chính phủ nên tránh việc cố gắng kiểm soát giá cả. Hoặc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Vì điều này sẽ chỉ dẫn đến sự kém hiệu quả và trì trệ.
Smith cho rằng các chính phủ nên tập trung vào việc tạo ra một môi trường pháp lý – kinh tế ổn định. Và có thể dự đoán được, trong đó các doanh nghiệp có thể yên ổn phát triển. Điều này sẽ cho phép thị trường tự do hoạt động và dẫn đến sự thịnh vượng gia tăng cho tất cả mọi người.
4. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Khái niệm GDP bắt nguồn từ các bài viết của Adam Smith về sự giàu có và năng suất. Ông cho rằng năng suất của một quốc gia là kết quả của khả năng tích lũy vốn. Và thông qua một loạt các thị trường được kết nối với nhau. Tóm lại, Adam Smith nhìn nhận nền kinh tế như một hệ thống liên kết với nhau. Qua đó, nơi sản xuất, tiêu dùng và trao đổi đều ảnh hưởng lẫn nhau. Để tạo ra tăng trưởng tích cực hoặc tiêu cực. Quan điểm này ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà kinh tế học sau này như John Maynard Keynes và Milton Friedman. Những người đã xây dựng dựa trên các ý tưởng nền tảng của Adam Smith để phát triển hiểu biết hiện tại của chúng ta về GDP.
Ngày nay, GDP được sử dụng như một thước đo chính để đánh giá sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Bằng cách theo dõi những thay đổi trong GDP theo thời gian. Chúng ta có thể xác định các khu vực mà năng suất đang được cải thiện. Và xác định các biện pháp can thiệp chính sách khi thị trường hoạt động không suôn sẻ.
Thông qua vài dòng tóm tắt trên. Ta có thể thấy những đóng góp của Adam Smith với Wealth of Nations. Nó đã có ảnh hưởng sâu sắc thế nào đến sự hiểu biết của chúng ta về cả kinh tế và xã hội. Bạn có thể đọc toàn bộ tác phẩm để hiểu thêm về những gì được gọi là nền tảng của kinh tế học hiện đại.
HỌC MBA ANDREWS DANH GIÁ – BỨT PHÁ TƯƠNG LAI Nhận ngay HỌC BỔNG 100% khóa học “Global Leadership” tại khuôn viên Đại học Andrews, Hoa Kỳ khi đăng ký tuyển sinh và nhập học từ 08/11/22 đến 31/12/2022. *Đăng ký nhận tư vấnTẠI ĐÂY.